TRĂNG LÀ NGUYỆT
Irene.
Và dạo đó, Qui Nhơn có rất nhiều chị xinh đẹp. Mỗi người mang một vẻ, thùy mị, dễ thương, sắc sảo, sang trọng hay quý phái…như chị Tố Mai, Vân Nga, Hoàng Hoa, Hồng Ngọc, chị Kim Liên, chị Thùy Hân, chị Bạch Yến, chị Tuyết Hoa, chị Ngọc Minh…
Tôi gặp chị lần đầu tiên vào một buổi chiều cuối tuần mùa Thu nắng nhạt. Đi bên cạnh chị là người đàn ông ( chị tôi bảo, đó là chồng mới cưới của chị ấy). Mặt Trời chênh chếch về phía Tây chiếu một mảng nắng vàng nhẹ sau lưng chị. Chị mặc một chiếc áo dài gấm màu vàng nhạt có hoa nhỏ li ti ôm sát thân người đầy dặn với cái eo thon nhỏ. Mái tóc uốn xỏa dài, khuôn mặt thanh tú, nụ cười tươi vui. Cả người chị toát lên nét kiêu sa nhưng không kém phần dịu dàng, duyên dáng. Dáng đi của chị nhẹ nhàng, thướt tha trong buổi chiều tà. Thật là tuyệt!
Tôi không biết tên của chị nhưng nét đẹp của chị đã thu hút sự chú ý, ngưỡng mộ của tôi, một cô bé mới mười một, mươi hai tuổi học lớp Đệ Thất, đệ lục gì đó?
Bẳng một thời gian dài…Một buổi chiều mùa Đông, bất ngờ gặp lại chị tại đường Nguyễn Thái Học, lúc đó tôi đang học Sư Phạm năm nhất niên (1972). Chị lái chiếc xe Jeep màu trắng mui trần. Chị mặc một chiếc áo dài màu thiên thanh, khoác ngoài là áo len cánh tay màu trắng, thắt khăn quàng cổ cùng màu và tóc xỏa bay bay. Nhìn chị hiện lên vẻ đài các, sang trọng và quý phái. Tôi thấy có những chiếc xe vespa cố vượt lên để ngắm chị. Một chiếc xe Jeep của pilot rà rà theo sau…còn tôi đứng bên đường ngẩn ngơ nhìn theo…
Tháng tư năm 1975, Lúc này tôi đã là giáo viên lại được về trường Ấu Triệu giảng dạy. Trong vòng ba tháng tất cả giáo viên phải hoàn tất cho xong chương trình năm học. Riêng tôi vừa dạy vừa phải lo mọi thủ tục cho học sinh cuối cấp để chuyển hồ sơ các em lên lớp sáu.
Sau đợt học chính trị Hè, năm học kế tiếp trường sẽ nhận giáo viên và học sinh cả nữ lẫn nam, bắt đầu từ năm học 1975-1976, Qui Nhơn không còn có trường dành riêng cho nữ hay nam nữa.
Một buổi sáng, tôi thấy chị đi vào văn phòng trường và rồi tôi thật sự vui mừng khi biết chị vừa có quyết định được phân về giảng dạy cùng trường và cũng từ lúc đó tôi biết tên chị.
Không biết như thế nào? Mà chỉ một thời gian sau chị và tôi trở nên thân thiết. Khi quen với chị, tôi mới biết tính tình của chị thật là dễ thương. Chị mộc mạc, dễ gần. Chị đơn giản, chân thật. Chị hoạt bát, vui vẻ. Chị chịu khó, siêng năng, gánh vác không câu nệ, không hơn thua.
Những buổi tối, tôi và chị đạp xe lên tận Ghềnh Ráng, đi bộ vào sâu bên trong các xóm nhà dân, ngang qua những ngôi mộ… Sợ ghê hồn! Để dạy bình dân học vụ hay xóa mù. Dạy xong ra về, đêm đã khuya hai chị em lại đạp xe đạp trở ra. Con đường vắng vẻ nhập nhoạng chỉ nghe tiếng gió lao xao qua hàng dương và tiếng sóng biển vỗ ầm ì vào bãi cát. Những lúc bên nhau chuyện trò tâm sự cùng nhau, hai chị em hiểu nhau hơn, nương tựa vào nhau trong giai đoạn mà theo tôi là mới mẻ, lạ lẫm và khó khăn nhất…đối với những người giáo viên miền Nam được đào tạo trước năm 75.
Tôi thường đến nhà chị. Chị có ba con, đứa đầu năm, sáu tuổi, đứa út hai tuổi…Chồng chị dạy ở Bồng Sơn. Trước đây thầy dạy ở Cường Để, Tuy thầy không dạy Nữ Trung Học trường của tôi nhưng tôi có học thầy môn Lý Hóa luyện thi năm 12.
Một mình chăm ba đứa con nhỏ, chị vừa dạy dỗ, vừa chợ búa cơm nước…Có một hôm, trời mưa to. Tan trường, tôi theo chị về nhà lấy cuốn sách giáo khoa… Vừa về đến nơi, thấy mấy đứa nhỏ lội ra mưa, ướt lói ngói. Chị vội vàng tay bồng, tay xách mấy đứa nhỏ vào nhà. Vừa vào thì ôi thôi! Quyển giáo án của chị bị xé tan tành để làm thuyền! Chị ôm quyển tập lên mà nước mắt tuôn thành dòng. Ai đã từng đi dạy trong giai đoạn đó chắc cũng đều biết, giáo án là cái “án” của giáo viên, nên khi bị như thế là “toi” mất đi biết bao nhiêu công sức! Soạn lại không biết có kịp không? vì nhà trường hầu như ngày nào cũng kiểm tra…
Tuy bận rộn với con cái, với công việc gia đình nhưng khi chị đến trường, bước lên bục giảng chị vẫn thướt tha trong những chiếc áo dài gấm thật đẹp! (Những áo dài này đều may trước 75). Áo thì màu vàng nhạt, vàng đậm, áo màu tím, áo hồng phấn, áo xanh dương, xanh ngọc… Dáng đi của chị vẫn nhẹ nhàng, vẫn sang trọng và thanh tao. Những khi đi lao động thì chị lại mặc giản dị với chiếc áo bà ba màu tím hay màu trắng.
Chị là khối trưởng khối lớp Một, tôi dạy khối lớp 5. Giờ chơi nào tôi cũng xuống lớp chị. Các giáo viên dạy lớp Một chẳng bao giờ được nghỉ ngơi vào giờ chơi cả vì các cô phải phóng mẩu con chữ hay từ khóa… chấm bài cho học sinh, chuẩn bị đồ dùng dạy học…Do cũng biết vẽ vời đôi chút nhờ học Sư Phạm nên tôi giúp chị vẽ các bức tranh làm đồ dùng giáo cụ trực quan trong các tiết học Toán hay Học Vần. Những lần mà khối chị lên thao giảng hay lên chuyên đề là tôi lại có công ăn việc làm.
Chị dạy hay lắm! Những năm đó ai cũng biết tiếng chị. Chị lên một tiết dạy mẫu cho chuyên đề Cải Cách Học Vần lớp Một, hàng trăm giáo viên dự, ai cũng ngợi khen. Phong thái chị lên lớp nhẹ nhàng, cách diễn giảng rất nghệ thuật, dễ hiểu và lôi cuốn học sinh.
Những lần thi văn nghệ trường, tôi lại xuống tập cho khối chị một vài tiết mục. Rồi được chọn, cùng chị dẫn học sinh đi thi Thành Phố, Tỉnh… thế là chị em lại được đi bên nhau.
Nhà trường giao cho khối chị đăng ký Tổ Lao Động XHCN, chị từ chối nhưng không được. Thế là chị em lao vào ngày đêm lo mọi việc. Chị và các chị trong khối thì lo bài dạy, lo nội dung sổ sách…tôi thì lo vẽ tranh, lo trang trí Hồ sơ sổ sách…rồi cùng cả tổ làm đồ dùng dạy học hay trang trí phòng của tổ.
Chị bảo với tôi rằng, “Chị em mình yêu nghề giáo nhưng thời buổi này, muốn đứng vững trong nghề thì phải theo con đường “Chuyên môn” em ạ!”
Nhiều năm liền Tổ của chị là tổ đứng đầu trong nhà trường, trong Thành phố, trong Tỉnh. Nghe lời chị, tôi cũng chuyên tâm giảng dạy học sinh và cuối cùng chị và tôi đều đạt là Giáo Viên Dạy Giỏi .
Nhờ đứng vững trong chuyên môn nên hai chị em cũng có một chút uy tín với ngành Giáo dục, với đồng nghiệp, trong phụ huynh và trong học sinh.
Mùa hè năm 1983, hai chị em được Công Đoàn Giáo Dục cho đi tham quan Đà Lạt. Có thể nói đây là chuyến đi Đà Lạt đầu tiên của tôi và là chuyến đi vui nhất của hai chị em. Đà Lạt lúc đó vẫn còn hoang sơ, vẫn còn thơ mộng…và tâm hồn hai chị em lại đồng điệu với cảnh sắc nên thấy lòng mình nhẹ nhàng, vui tươi…
Trong cách đối xử với mọi người chị lúc nào cũng nhường nhịn, không tranh giành, không hơn thua, không ganh ghét … sống nhẫn nhịn, hòa đồng, bao dung và vui vẻ…
Những năm đó, đời sống của mọi người dân rất khổ. Tôi cứ thấy thỉnh thoảng có một vài người già đến nhà và chị thường đem đồ ra cho khi thì gạo, thức ăn…lúc thì áo quần, chăn mền... Đi chợ mà thấy mấy bà già buôn bán cực khổ là chị hay dừng lại mua dùm hay hỏi thăm…có khi hôm sau lại đem đồ đạc ra cho…Do đi bên cạnh chị tôi mới biết được tấm lòng của chị đối với những người không may. Sự nhân hậu của chị thể hiện cụ thể qua những việc làm chứ chị không ngồi nói suông.
Mỗi khi thầy từ Bồng Sơn về nhà, tôi lại thấy chị tất bật hơn. Chị sửa soạn các món ăn và tôi lại được theo chị học các bí quyết về các món ăn đó.
Có lẽ hai chị em vui nhất là những ngày giáp Tết. Sau những buổi dạy, hai chị em lại đi chợ Tết. Chị lại bày cho tôi cách làm từ những món bánh mứt đến các món mặn …Tôi được học từ chị cách đi chợ chọn thực phẩm tươi sống mà giá lại phải chăng cho đến cái tính tiết kiệm tôi cũng được học từ chị. Cho nên mỗi khi mua sắm hay mua hàng hóa ở chợ tôi cũng đắn đo cẩn thận. Rồi về nhà, chị chỉ cho tôi cách làm. Và Tết đến, nhà hai chị em lại có các món ăn giống nhau.
Mỗi lần trường có tiệc liên hoan, nhà trường bao giờ cũng giao cho chị đảm nhiệm và tôi lại được ở bên chị đi chợ chọn thực phẩm và nấu nướng. Những năm sau 75 không có hàng quán gì hết gnên chuyện tiệc tùng ăn uống phải “tự biên tự diễn”. Chị nấu bún bò Huế cực ngon, chị nấu bún Riêu thật tuyệt! Bây giờ có dịp đi khắp nơi tôi cũng không bao giờ tìm được tô bún riêu cua chất lượng hay mùi vị thơm ngon của nước bún bò Huế như chị đã từng nấu.
Nhiều khi tôi nghĩ các chị lúc xưa, chị nào cũng công dung ngôn hạnh như thế chăng?
Quen chị, tôi học ở chị từ đi đứng, cách ăn nói hay cách xử thế, đảm đang trong mọi việc. Nhờ chị tôi cũng biết cách nấu nướng… tôi nấu ăn dần dần khẩu vị cũng dễ ăn hơn…Chị luôn cho tôi những lời khuyên thật hay trước mọi vấn đề. Tuy nhiên cho đến giờ này, có rất nhiều điều mà tôi vẫn không thể học, để làm sao mà cho giống chị được? Hình như đó là thiên phú chỉ cho riêng chị mà thôi.
Bây giờ, hai chị em đều vào Sài Gòn thỉnh thoảng rảnh rỗi tôi lại qua nhà chị, hai chị em lại nấu nướng… cùng nhau ăn, cùng nhau tâm sự…và tôi lại tiếp tục học ở chị…
Nghĩ đến chị, tôi lại nhớ những ca từ trong bài Nguyệt Ca của nhạc sĩ TCS:
Từ khi Trăng là Nguyệt, đèn thắp sáng trong tôi.
Từ khi Trăng là Nguyệt em mang tim bối rối…
Từ khi Trăng là Nguyệt tôi như từng cánh diều vui
Từ khi em là Nguyệt trong tôi có những Mặt Trời….
Đối với tôi chị Nguyệt như là vầng Trăng. Chị luôn tỏa sáng trong tâm hồn tôi.
Sài Gòn tháng sáu/2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét